Người Raglai ở đất É Lâm gọi rượu cần là tà-pai. Như đồng bào các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên, ngày thường chủ nhân của tiếng đàn Chapi hiếm khi uống rượu tà-pai. Người Raglai chỉ vít cần rượu những khi buôn làng có lễ hội, nhất là vào dịp cuối năm, khi lúa đầy bồ, khi núi rừng khoác màu xanh áo mới.

Người Raglai làm rượu cần rất công phu với nguyên liệu gồm nhiều loại rễ cây, lá rừng có vị thuốc. Cũng chính vì vậy mà rượu cần Raglai rất thơm ngon và bổ dưỡng, ai đó đã vít cần một lần hẳn sẽ mãi đắm say, ngây ngất!

Một lần đến É Lâm, tôi hết tỉnh lại say. Say không chỉ vì men rượu tà-pai đượm nồng mà còn vì tình đất tình người miền sơn cước!

1. É Lâm là tên gọi ngày trước của huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận. Thời Pháp, É Lâm được phân chia thành hai tổng É Lâm Thượng và É Lâm Hạ, trực thuộc quận An Phước. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp trên đất Ninh Thuận, trước sự hăng hái đồng lòng đuổi giặc của đông đảo bà con dân tộc thiểu số, để có mật danh cho chiến khu, cán bộ hoạt động vùng É Lâm đã đặt tên cho vùng đất sinh sống qua bao đời của đồng bào các dân tộc Cơ Ho, Chu Ru và đông đảo nhất là Raglai tên gọi… Bác Ái.

Nhắc đến É Lâm ngày trước và Bác Ái hôm nay, người ta thường liên tưởng đến những trận đánh huyền thoại của người Raglai chỉ với cung tên, giáo mác và những chiếc bẫy đá đã khiến hết quân Pháp rồi lại Mỹ hồn xiêu phách lạc. Mà tiêu biểu, đi vào lịch sử chống ngoại xâm kiên cường nhất vẫn là trận đánh của anh hùng Pi-năngtắc trên đỉnh núi Gia Rích vào năm 1961.

Vượt dặm trường xa, qua biết bao con suối, ngọn núi, chúng tôi tìm đến vùng đất É Lâm ngày nào không chỉ vì khâm phục tinh thần thép của tộc người Raglai kiên cường, mà còn vì ấn tượng trước sức sống quật khởi cùng kho tàng văn hóa đặc sắc của tộc người nơi đây, ấn tượng nhất vẫn là văn hóa uống rượu cần mà người bản xứ quen gọi… tà-pai.

Như rượu tà-pai của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, bên cạnh những nét chung như được ủ chế từ cây rừng, có mặt trong các lễ hội, lễ bỏ mả đến lễ cưới, đám tang, lúc được mùa…, rượu tà-pai của người Raglai ở É Lâm có nhiều điểm khác lạ. Lạ từ cách ủ rượu, những kiêng cữ trong quá trình làm men đến những quan niệm, những nghi thức trước khi vít cần rượu truyền tay nhau cái tinh túy của núi rừng ở vùng đất núi thật cao, sông thật sâu, và lòng người thì chân chất, hào sảng như sông như núi.

Chúng tôi ghé nhà bà Mấu Thị Bích Phanh (xã Phước Đại), nguyên Phó chủ tịch huyện Bác Ái và nghe bà kể nhiều điều kỳ thú về men rượu tà-pai. Bà Phanh sẻ chia rằng nếu ai đó uống rượu tà-pai vào ban ngày, vài ba người cùng vít cần rượu như thế không phải là người biết thưởng thức tà-pai, mà chỉ là kẻ thèm rượu.

Bà Phanh nói muốn uống tà-pai cho đúng bài đúng phép, cho cảm được tinh túy của hương núi hương rừng, cũng như cảm cả tình đất, tình người Raglai thì phải uống tà-pai vào đêm hội, khi giữa làng bập bùng ánh lửa, uống trong tiếng mã la thúc giục, uống cùng những chàng trai cô gái Raglai tràn đầy sức sống, uyển chuyển trong những điệu múa, điệu nhảy cổ truyền của tộc người. Phải uống tà-pai như thế mới gọi là uống!

2. Để làm nên những ché rượu tà-pai, các bà các chị người Raglai tâm sự là rất kỳ công. Và không phải ai ủ rượu tà-pai cũng ngon, cũng đậm hương vị. Các cụ già cho biết ngày trước và bây giờ cũng vậy, đàn ông Raglai chỉ cần vít cần rượu tà-pai là đủ biết tính tình của người ủ rượu, rằng người ấy có sâu sắc, có khéo tay, có tinh túy, có nồng nàn hay không. Nhưng nói là nói thế thôi, chứ phụ nữ Raglai nổi tiếng khéo tay hay làm, dệt váy đẹp mà ủ rượu cũng ngon hết biết.

Nghệ nhân Pinăng Thị Lêl ở xã Phước Trung (Bác Ái) bật mí rằng khách miền xuôi đến É Lâm khi được mời uống rượu tà-pai đều ngất ngây, đều tấm tắc khen ngon, khen cái hương vị ngòn ngọt, chua chua, cay cay, nồng nàn đến rất riêng, rất lạ. Tất cả là nhờ loại men ủ rượu được làm từ nhiều loại rễ cây rừng trộn với thành phần chủ đạo là ớt hiểm, ớt chỉ thiên, củ riềng, rễ cây pateh, rễ cây dong, rễ cây rawe…

Khi tạo được men rồi, các bà các chị Raglai thường ủ men với bắp, mì, bobo… “Phải bịt kín ché rượu, không để nó thoát hơi” – nghệ nhân Pinăng Thị Lêl nói rõ cách thức: “Khi ủ xong,  khoảng một tuần là men dậy. Lúc đó không được di chuyển ché rượu. Cũng không được để những thứ có vị chua bên cạnh ché. Để như vậy ché rượu sẽ không ngon, sẽ rất chua không thể uống được”. Cũng theo nghệ nhân Pinăng Thị Lêl, nếu ủ không đủ ngày, ủ không đúng kỹ thuật thì rượu không ngon, khiến người uống rượu bị đau đầu…

Có một điều rất lạ mà các bà, các chị người Raglai đều thuộc lòng là trong quá trình làm men, tuyệt đối không được gõ nia phát ra tiếng ồn cũng như không được cãi nhau, không được gây sự, không được để lòng mình có những hờn ghen, thù hằn và phải tắm rửa sạch sẽ. Nếu bóng hồng nào đó vi phạm điều cấm kị này, làng sẽ phạt nặng.

Sau này qua tham khảo từ các già làng, mới biết quy định ấy có thâm ý sâu xa. Tổ tiên người Raglai quan niệm rượu tà-pai là rượu đại đồng, là rượu hội, rượu lễ, là thứ rượu kết nối, hàn gắn mọi người với nhau. Khi vít cần rượu tà-pai chuyền tay nhau, từ đây mọi người là anh em, là bạn bè, là lúc tình thâm giao, bằng hữu được thắt chặt. Nên đồng bào không chấp nhận thứ rượu thiêng rượu lễ ấy lại được làm ra từ con người hoen ố về thân xác lẫn tính cách.

Chỉ riêng quan niệm, suy nghĩ ấy thôi đủ để thấy rượu tà-pai của người Raglai đong đầy bề dày văn hóa thâm thúy và rất người. Đồng bào quan niệm như thế cốt lõi để tự răn mình, bởi chỉ khi con người ta sạch sẽ, tâm hồn khoáng đạt, cao thượng, vị tha thì men rượu mới tốt, ché rượu tà-pai mới thơm ngon đúng cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen của nó!

3. Rời Ninh Sơn, chúng tôi đến xã vùng cao Phước Thắng và ơn Yàng, lại được những người con Raglai, những chủ nhân của núi rừng nơi này đón tiếp thịnh tình bằng những ché rượu tà-pai thơm lựng, cùng bao điều kỳ thú khác liên quan đến men rượu đại ngàn. Đêm hôm ấy, trong ngôi nhà ấm cúng nơi đầu làng Ma Oai, ông Pi-năng Thạnh, cán bộ cách mạng lão thành mắt rực sáng khi nói về rượu tà-pai.

Ông bộc bạch rằng như mã la (như cồng chiêng Tây Nguyên nhưng không có núm), những ché rượu tà-pai gắn bó với đời người Raglai từ khi sinh ra đến lúc chết. Và cũng như mã la, đồng bào xem những ché rượu tà-pai là tài sản không thể thiếu được trong mỗi gia đình, trong đời sống của mình.

“Đến lễ Tết, nhà nghèo cỡ nào cũng có vài ché rượu mời bạn đãi khách. Nhà khá giả thì có nhiều ché rượu hơn. Và khi làng có việc (thường thì lễ bỏ mả-PV), mọi nhà cùng mang rượu đến nhà người chết, hay ra khu vực bỏ mả đặt để ché rượu cạnh nhiều ché rượu khác rồi cùng khui, cùng uống với nhau”.

Sẻ chia của già làng Pi-năng Thạnh gợi chúng tôi nhớ đến những lần tham dự lễ bỏ mả của đồng bào Jrai ở xã Ia K’reng thuộc huyện Chư Pảh, tỉnh Gia Rai. Khi gia đình nào đó có lễ tang hay đến thời điểm làm lễ bỏ mả, tùy điều kiện mà người trong làng cứ thế mang những ché rượu đến góp, cùng uống, cùng say. Người khó khăn thì góp 1 ché rượu. Người khá hơn thì góp 2, góp 3 ché rượu. Cứ thế trong một lễ bỏ mả, có lần tôi chứng kiến người làng góp cả trăm ché rượu, trải dài hàng chục mét, ai uống cứ uống, ai say cứ say, tỉnh rồi lại uống… Càng ngẫm càng thấy tục góp rượu trong lễ bỏ mả của đồng bào các dân tộc vùng cao sao mà dễ thương, đáng yêu quá!

Con cá bắt ở suối nước lửa hồng. Lá bép – thứ lá mà người S’tiêng ở tỉnh Bình Phước tin rằng là món khoái khẩu của loài tê giác một sừng nay đã tuyệt chủng tại Việt Nam được gói lá chuối, rồi tung vào lửa, khi lá chuối chuyển từ màu xanh sang màu vàng là rau chín (đồng bào gọi là canh nướng)…, thêm chén muối ớt, thêm vài đọt rau rừng, già làng Pi-năng Thạnh bày “mồi” ra đó, mời khách chung vui. Lúc này ché rượu tà-pai được khui, hương rượu thơm ngào ngạt.

4. Uống rượu tà-pai, người Raglai hàm ẩn nhiều ý nghĩa. Đây là lúc người làng bày tỏ sự kính trọng người già, bằng việc mời các cụ vít cần rượu uống trước, sau đó đến lượt những người luống tuổi, và người trẻ hơn. Uống rượu tà-pai cũng là lúc mà người Raglai muốn nói với nhau rằng giờ đây chẳng có rào cản về đẳng cấp, chẳng có chỗ cho kẻ trên người dưới, mọi người cùng bình đẳng với nhau, đến lượt mình ai đó cứ uống cho bằng cạn, nước vơi sẽ được đổ đầy ché rượu rồi đến lượt người khác, sự công bằng rõ ràng đến từng giọt. Uống đến khi nào rượu nhạt mới thôi!

Khi say là lúc người Raglai thoát tục, là lúc họ hòa với đất trời, núi rừng và chìm sâu trong bản sắc văn hóa đa chiều qua bao đời người vẫn nguyên vẹn nét hoang sơ. Khi ngây ngây trong men nồng tà-pai, những người già sẽ kể chuyện cổ, chuyện thơ, chuyện ngụ ngôn cho lớp con cháu nghe. Rồi cũng chính những nghệ nhân ở tuổi xế chiều ấy sẽ hát những làn điệu hari ikhat yulukal (hát kể sử thi) huyền hoặc. Và lúc này, những chàng trai, cô gái sẽ đối đáp với nhau, ngỏ lời với nhau bằng những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ…

Uống rượu tà-pai với tộc người Raglai là như thế. Là bạn hãy tạm dẹp bỏ những lụy phiền của cuộc sống xô bồ đầy toan tính, hòa vào nhịp sống chẳng chút vẩn đục của đồng bào. Đừng giấu mình, đừng quá đạo mạo, đứng đắn mà hãy cứ hết mình, hãy uống mặc sức, uống thật say. Rượu tà-pai được ủ từ tấm lòng, tình cảm của những người vợ, người mẹ Raglai nên đằm thắm lắm, êm dịu lắm, chẳng có chuyện đầu nhức như búa bổ hay cơ thể mệt mỏi rã rời. Lên rừng uống rượu tà-pai, say xong sẽ tỉnh, tỉnh xong lại say, cứ thế vui cho hết đêm ngày, cho trọn tình trọn nghĩa!

NISAVA TRAVEL! – Theo Nguyễn Thành (An Ninh Thế Giới), internet

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *