Từ Quốc lộ 46 rẽ sang đường 15 qua Mỹ Sơn (Đô Lương), vượt đỉnh Cồn Nem, chúng tôi ghé thăm Trù Sơn, cái nôi của nghề gốm truyền thống trên đất Đô Lương nói riêng và cả xứ Nghệ nói chung. Trong sắc thu, những mẻ gốm thô được nắng, đỏ rực cả một khoảng sân dài.
Đưa chúng tôi tới thăm các hộ làm gốm, anh Nguyễn Đình Hà (Chánh văn phòng UBND xã Trù Sơn) như một hướng dẫn viên du lịch thực thụ, đã cho chúng tôi biết và hiểu thêm về làng gốm có một không hai này. Nói như vậy, bởi vì đây là nơi duy nhất làm ra các loại nồi bằng đất ở xứ Nghệ, và cũng có thể là duy nhất trong cả nước còn làm các loại nồi bằng đất. Chính vì thế mà ngoài cái tên Trù Sơn, đây còn được gọi là làng “Nồi Đất”.
Trù Sơn nằm trên diện tích 2089 ha, có 2150 hộ dân, 9648 khẩu và được chia làm 16 xóm. Là một xã thuần nông, nên làm gốm được coi là nghề phụ, tuy nhiên có thời kỳ nó đã trở thành nghề chính đem lại thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân nơi đây. Không có tài liệu nào ghi chép lại một cách chính xác gốc tích của làng nghề nhưng theo như chuyện kể của những người cao tuổi trong xã thì nghề làm nồi đất ở đây xuất hiện từ thời nhà Trần, do một công chúa con vua Trần truyền dạy khi người dân vào đây khai hoang lập ấp.
Gốm ở Trù Sơn có lẽ là loại gốm còn giữ được những nét cơ bản nhất của gốm cổ. Không chỉ vì nó được làm thủ công mà ở đây trong từng khâu, từng công đoạn đều đơn giản, không cầu kỳ, sặc sỡ, tuy nhẹ, mỏng, nhưng khá cứng. Để có được loại đất ưng ý để về làm gốm, người Trù Sơn phải xuống Nghi Văn (Nghi Lộc) và lên tận Sơn Thành (Yên Thành), những nơi đó mới có loại đất sét có màu đỏ, dẻo và đẹp, thích hợp cho việc làm gốm.
Đất đã nhồi kỹ sẽ được cho lên bàn xoay để tạo ra những hình dáng thô sơ ban đầu của những chiếc nồi, chiếc siêu. Khi đã làm xong phần thô, những chiếc nồi sẽ được bàn tay khéo léo của người thợ gọt lại cho thật trơn và đem đi phơi nắng, sau đó sẽ được đưa vào lò nung.
Theo chị Lương Thị Kháng – một chủ lò gốm ở đây cho biết, để có được mẻ gốm đạt chất lượng, quan trọng nhất vẫn là khâu đun gốm. Một mẻ đun như vậy được khoảng 300 chiếc, sau khi được xếp vào trong một cái lò hình tam giác xây bằng đá ong, gốm được đun bằng lá bổi, lá thông, bên ngoài phủ một lớp rơm để giữ nhiệt. Sau khoảng 4 đến 5 tiếng đun liên tục, mẻ gốm sẽ hoàn thành. Tuy nhiên để cho gốm chín đều, không bị cháy hay non quá, mới là điều quan trọng, người thợ phải biết cách “xem lửa” để biết thời điểm nào là cần phải dừng đun.
Vì là nghề phụ nên gốm ở đây cũng được làm theo mùa. Hàng năm, cứ sau mùa gặt hái là người dân lại xắn tay lên làm gốm. Cũng có những hộ làm quanh năm, nhưng số lượng là không nhiều. Trung bình mỗi năm ở đây cũng chỉ có 5 tháng làm nghề.
Từ giữa những năm thập niên 90 của thế kỷ XX trở về trước, hầu hết trong xã, hộ nào cũng làm nồi đất. Thế nhưng càng về sau số hộ còn theo nghề cứ rơi rụng dần, đến nay chỉ còn khoảng 300 hộ làm. Chị Kháng còn cho biết, trước đây trẻ con cứ 7 đến 8 tuổi đã biết làm nồi, vì cũng khá đơn giản nên chỉ cần nhìn người lớn làm là có thể làm theo, lâu dần thành quen.
Người thạo nghề, một buổi cũng làm được khoảng 20 chiếc. Bây giờ, chỉ còn chị em phụ nữ tranh thủ lúc nông nhàn làm nghề, cũng là để có thêm thu nhập, nhưng quan trọng nhất vẫn là để cái nghề truyền thống của cha ông không bị mai một đi.
Để tìm hướng đi cho việc bảo tồn nghề gốm cổ tại Trù Sơn, năm 2004 đã có 5 người dân ở Trù Sơn được mời ra biểu diễn cách thức làm gốm tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Cũng tại đây, đã có một cuộc Hội thảo về phục hồi, duy trì và phát triển nghề làm gốm Trù Sơn do Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam phối hợp với Sở VHTT Nghệ An, UBND huyện Đô Lương và Bảo tàng Nghệ An tổ chức.
Năm 2007, Trung tâm hướng nghiệp, dạy nghề huyện Đô Lương, phối hợp với Phòng Công thương huyện có đề án về việc khôi phục các làng nghề, trong đó có làng gốm cổ Trù Sơn. Theo đề án này, người dân Trù Sơn sẽ được tham gia các lớp tập huấn về kỹ thuật, mẫu mã để đem áp dụng vào việc sản xuất gốm. Đồng thời người dân cũng sẽ được hỗ trợ để đầu tư thiết bị hoặc được cho vay vốn không tính lãi được Phòng Công thương huyện hỗ trợ phần nào trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm.
Anh Hà cũng cho biết thêm, phía xã cũng đã có sự phối hợp với các cấp, các ngành trong việc xúc tiến thực hiện đề án khôi phục làng nghề. Trước đây cũng đã có một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Quảng Ninh về đặt hàng tại đây nhưng sau đó không thấy xúc tiến gì thêm.
Hiện nay vẫn có một số người đứng ra bao tiêu sản phẩm để đưa xuống Vinh, vào Hà Tĩnh, Quảng Bình và ra Hà Nội, Thái Nguyên. Tuy nhiên số lượng không nhiều và không thường xuyên.
Trăn trở về việc bảo tồn và phát triển gốm cổ trong nỗi lo bị mai một của người dân Trù Sơn hiện nay không phải là không có cơ sở.
Thiết nghĩ, ngoài những đề án, chính sách hỗ trợ thích hợp, cần phải có sự phối hợp của các ngành các cấp, để cùng chung tay vào việc giữ cho gốm Trù Sơn không những không bị mai một mà còn được phát triển, làm phong phú thêm làng nghề truyền thống của Nghệ An. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền, giới thiệu sản phẩm gốm Trù Sơn ra thị trường trong và ngoài tỉnh.
Theo Nghệ An Tourism
Du kịch, GO!