(SGGP) – Bị quyến rũ bởi câu ngân nga của người xưa: Nhất vui là hội phủ Giầy/ Vui thì vui vậy, chẳng tày chùa Bi, tôi lặn lội về thành Nam. Thật thú vị, lại được chiêm ngưỡng một loại hình nghệ thuật độc đáo có sức sống gần 500 năm.
Độc nhất vô nhị
17 giờ, bà con làng trên xóm dưới đã đổ về đầy sân chùa. Mỗi người mỗi việc, người chuẩn bị lễ vật cúng thánh, phật, người lo quét dọn, người giăng đèn kết hoa, người bắc phông màn, trải chiếu, chuẩn bị trầu nước… Ai nấy tíu tít, hoan hỉ. Hôm nay phát tấu mà!
< Gác chuông chùa Bi.
Chùa Bi (còn gọi chùa Đại Bi) là ngôi chùa chung của 3 làng Vân Chàng, Giáp Ba và Giáp Tư, là một trong 4 ngôi chùa được xây dựng ở huyện Tây Chân (sau đổi thành Nam Chân) thuộc trấn Sơn Nam từ thời Lý (1010 – 1225), nay thuộc thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Chùa rộng 2.600m2 với hơn 60 gian, hầu hết bằng gỗ lim. Nhìn từ ngoài vào ta thấy chùa được nâng cao dần, kiến trúc hình chữ công (nội công, ngoại quốc), trông nguy nga đồ sộ. Hai dãy hành lang dài và thấp hai bên tả hữu càng tôn thêm vẻ đẹp của tháp chuông 2 tầng với 8 mái uốn cong mềm mại, tựa đóa sen đang nở.
Trong chùa lưu giữ nhiều cổ vật quý có từ thời hậu Lê: quả chuông cao hơn 2m, đỉnh đồng, khay, chén, đĩa… Một quần thể lăng mộ, am, tháp với kiến trúc đặc sắc; khung cảnh thiên nhiên trong lành, xanh tươi và khu chợ chùa tấp nập (ngoài việc đáp ứng nhu cầu giao thương hàng ngày của người dân quanh vùng; mùng 8 Tết, chợ còn họp phiên đặc biệt, dân quanh vùng mang đến đây từ nông cụ đến cây cảnh, đồ cổ… để buôn bán cầu may. Theo các bậc cao niên trong vùng, phiên chợ Viềng Nam Giang này ra đời trước và độc đáo hơn cả chợ Viềng phủ Giầy bên kia sông Đào) cũng tạo thêm nét duyên cho ngôi chùa cổ thanh tịnh và đã được Bộ VH-TT (cũ) xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa từ năm 1984.
Đại đức Thích Thanh Quyết, trụ trì chùa Bi, cho biết: Chùa thờ vị thánh tổ Từ Đạo Hạnh, con trai của ông Từ Vinh giữ chức đô sát đời vua Lý Nhân Tông. Từ Đạo Hạnh đã kết bạn với Không Lộ thiền sư ở chùa Không Lộ và Giác Hải thiền sư ở chùa Phúc Lâm. Ba người nghiên cứu pháp môn đà la ni và cùng nhau sang Tây Trúc (Ấn Độ) thỉnh kinh và được đức Phật tổ truyền cho tâm án, lục trí thần thông.
Để tưởng nhớ thánh tổ Từ Đạo Hạnh, vị thiền sư đã trụ trì ở chùa Bi, hàng năm, dân làng mở hội từ ngày 20 đến 24 tháng Giêng âm lịch. Trong suốt mấy ngày hội thường tổ chức tưng bừng rước kiệu, tế xuân và các trò vui chơi như đánh cờ, đấu vật, múa rồng, chạy đàn cầu an… Đặc biệt, suốt những đêm hội còn diễn ra các trò múa rối mà người địa phương quen gọi là trò hát rối hay ổi lỗi.
Đúng 19 giờ, trong tiếng chuông, trống, thanh la, mõ vang rộn, gần 20 ông lão mặc quần trắng, áo dài thâm, đội khăn lượt hoặc khăn xếp kính cẩn tiến vào hậu cung thắp hương, cúng lễ rồi mở hòm rước 12 đầu rối, gọi là thánh tượng, ra trước chánh điện. Trong làn hương thơm ngát của hương hoa, phẩm quả, các ông lần lượt xếp hàng trước tượng thiền sư Từ Đạo Hạnh, điều khiển những thánh tượng cúi đầu lạy thánh rồi tiến ra sân khấu. Sân khấu biểu diễn chỉ đơn giản là một bức rèm che cách điệu hình sóng nước được mắc vào hai cây cột giữa tiền đường trong chùa (gọi là dàn). Người múa rối, người hát, người gõ nhạc cụ đứng sau tấm màn, quay mặt về phía bàn thờ Phật và bàn thờ đức thánh Từ (thế nên mới gọi là múa rối hầu thánh).
Giáo trống rộn ràng báo hiệu đêm hát rối bắt đầu. Mỗi thôn có một bài giáo trống khác nhau, hay nhất là bài của thôn Giáp Ba. Rồi lần lượt đến mở hò, dâng cách, đọc kệ. Tiếp theo, 3 nhóm rối của từng làng (mỗi nhóm 10 người) ra hát chúc làng mình rồi cùng nhau đồng ca lời chúc mừng chung cho cả 3 làng, 3 xã được an lành, phú quý. Các bài hát có những âm điệu, giai điệu khác nhau nhưng đều hát vần ra theo nhịp 1/3 hoặc 2/7. Đặc biệt các lời đệm, lời đón đều dùng tiếng Nôm cổ, làm theo thể song thất lục bát hoặc lục bát: Là ôi là lễ lã lè lại là lèn; hồ la hồ hồ la la lải la lèn; là ôi là a a a ớ dô là vậy, là vậy hờ là là vậy; lê lê là… Nội dung của các bài hát đều mang ý nghĩa chúc phúc, ca ngợi quê hương đất nước tươi đẹp, ca ngợi những chiến công trong lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông xưa, nhắc nhở mọi người biết sống thủy chung, trọng lễ nghĩa…
Rối chùa Bi thuộc thể loại rối tay. Tượng làm bằng gỗ vàng tâm khoét rỗng, phủ sơn ta, với nét mặt được các nghệ nhân dân gian khắc họa khá kỹ lưỡng, thể hiện những tính cách khác nhau, được người dân gọi là thánh tượng. Bộ thánh tượng chùa Bi không chỉ có giá trị lịch sử, tâm linh mà còn giàu tính mỹ thuật, được đánh giá là bộ đầu rối đẹp nhất miền Bắc Việt Nam.
Nguy cơ mai một
Ông Đoàn Quanh (84 tuổi) tham gia phường rối từ năm 13 tuổi và giữ chân trùm phường (chánh trùm) suốt từ năm 1970 tới nay, cho biết: “Chính tên của trò này là hội tu kỳ lệ (răn đời bỏ ác làm thiện); sau này mới có thêm các tên là rối đầu gỗ, ổi lỗi, hát rối”. Căn cứ vào kinh văn (tức lời hát) có thể phỏng đoán trò ổi lỗi được kiện toàn hình thức và nội dung từ thời Lê sơ (cách đây khoảng hơn 450 năm).
Có bài ca ngợi về việc khôi phục đế đô, có bài ca ngợi đức vua (Lê), đức chúa (Trịnh). Còn lại, hầu hết bài ca có ý nghĩa giáo dục răn dạy đạo đức phong kiến tam cương, ngũ thường, đạo gia đình… Trong ca từ có rất nhiều lời cổ, ví dụ như hòa (chàng), nường (nàng), bường (bình)… Còn rất nhiều từ tối nghĩa (nghĩa cổ) các cụ hát được nhưng không hiểu…
“Rối đầu gỗ chùa Bi là một loại hình diễn xướng dân gian rất đặc sắc và độc nhất vô nhị trên đất nước ta. Ở chùa Cổ Lễ (Nam Định) thờ thiền sư Giác Hải còn giữ được một số đầu tượng rối giống như ở chùa Đại Bi nhưng kinh văn (lời hát) ở những nơi này đã mất và cũng không còn phường rối. Ở chùa Keo (Thái Bình) thờ thiền sư Không Lộ cũng có trò diễn bằng những đầu gỗ nhưng chỉ múa đơn thuần chứ không có các làn điệu hát phụ họa và nghệ thuật tạo hình các con trò cũng không đẹp mắt…”, GS-TS Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, nhận xét.
Nhưng từ hàng trăm năm nay, do gắn liền với lễ hội đậm màu sắc tín ngưỡng của chùa Bi nên chỉ được diễn vài ba lần mỗi năm vào những dịp hội xuân, giỗ thánh. Năm 2002, Bộ Văn hóa – Thông tin đã tài trợ kinh phí nghiên cứu và Viện Âm nhạc Việt Nam đã về chùa Bi ghi âm và quay lại toàn bộ chương trình biểu diễn của trò ổi lỗi để lưu giữ hình ảnh với mục đích bảo tồn. Nhưng nghiên cứu của viện cũng chỉ chú ý về mặt diễn xướng và âm nhạc, không tìm hiểu sâu về nguồn gốc và lý do của trò ổi lỗi.
Tại chùa Đại Bi đang lưu giữ 2 bộ tượng rối, một bộ được làm năm 1957 dùng để tập, bộ còn lại có niên đại cao, mang nhiều giá trị lịch sử nhưng chưa có phương án bảo quản hữu hiệu để chống mối mọt. Hiện nay nơi lưu giữ tượng nằm sau chính điện thờ, ẩm thấp và thiếu ánh sáng. Nhiều đầu rối đã bong sơn, gãy tay cầm. Muốn phục chế, các cụ cũng không biết tìm đâu ra nghệ nhân. Còn làm mới thì theo như ông Sòng cho biết, giá một đầu rối vào khoảng 15 triệu đồng. Hiện nay, Sở VH-TT-DL tỉnh Nam Định đang có kế hoạch ghi hình toàn bộ diễn trình, làm hồ sơ để trình Cục Di sản văn hóa công nhận rối đầu gỗ hầu thánh là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Năm 2009, lần đầu tiên trò ổi lỗi ra mắt công chúng ngoài không gian chùa Bi. 6 nghệ nhân đã đến Hà Nội trình diễn tại tọa đàm “Để di sản sống trong đời sống đương đại” trước các nhà nghiên cứu văn hóa. Lần thứ hai, rối đầu gỗ chùa Bi “xuất ngoại” là ngày 4-3-2012. Các nghệ nhân đã lên chùa Thầy (thôn Đa Phúc, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội) để trình diễn trong một cuộc hội thảo về thánh Từ Đạo Hạnh và tín ngưỡng dân gian.
Theo Đỗ Quang Tuấn Hoàng (Sàigòn Giải Phóng)
NISAVA TRAVEL!