Nếu lấy Hà Nội làm trung tâm thì cứ ngược quốc lộ 6 lên phía Tây Bắc là chúng ta sẽ đến được vùng Tây Bắc của tổ quốc, quê hương của những điệu xoè điệu khắp, nơi có rừng hoa ban nở trắng trời.
Qua Hoà Bình, qua cái nôi của văn hoá Mường với Bi-Thang-Vàng-Động, leo gần 100 km đèo nữa là tới cao nguyên Châu Mộc, cao 800-1.000 m. Lên tới đây là bước chân vào vùng Tây Bắc.
Vùng Tây Bắc là không gian văn hóa của dân tộc Thái, nổi tiếng với điệu múa xòe tiêu biểu là điệu múa xòe hoa rất nổi tiếng được nhiều người biết đến. Ngoài ra, còn khoảng 20 dân tộc khác như H’Mông, Nùng, Tày, Pà Thẻn, Mường, Lự, Hà Nhì, Dao…v.v… nhưng Thái là dân tộc có dân số lớn nhất vùng. Ai đã từng qua Tây Bắc khó có thể quên được hình ảnh những cô gái Thái với những bộ váy áo thật rực rỡ đặc trưng cho Tây Bắc.
< Ruộng bậc thang đã trở thành “thương hiệu” có tiếng của vùng Tây Bắc bởi vẻ đẹp quyến rũ, do sức lao động, sáng tạo của đồng bào trên những sườn núi dốc này.
Thực ra đây không phải là vùng đất mà người Thái đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc thiên di của mình. Từ thế kỷ XI, theo dòng sông Hồng (Nậm Tao), người Thái đổ bộ xuống Nghĩa Lộ (Mường Lò) rồi từ đó con cháu của Tạo Xuông, Tạo Ngần tiến dần sang các vùng Sơn La, Điện Biên, giáp Lào. Đất ấy, tên Thái là Mường Theng tức là mường trời mà ngày nay chúng ta vẫn đọc trại ra thành Mường Thanh.
< Núi rừng, con người Tây bắc làm mê hoặc lòng người.
Lên tới Mộc Châu là nghe tiếng thông reo vi vút với rừng tre rừng vầu ngút ngàn trong sắc trắng hoa ban. Phải chăng chính vì thế mà châu Mộc có tên Thái là Trảng Tre, Trảng Ban (Phiêng Xang, Phiêng Ban)? ấy là nói những năm trước đây, chứ bây giờ hoa ban còn ít lắm.
Từ cao nguyên Mộc Châu đổ xuống thung lũng Yên Châu rồi vượt qua dãy Chiềng Đông đến Nà Sản về Sơn La không thấy hoa ban. .
< Cây ban, giống như cây sim rừng, nơi nào đất núi, đất sỏi là nơi đó ban mọc và nở nhiều hoa trắng đẹp. Con trai, con gái vùng Sơn La hẹn gặp nhau vào hội chơi núi hái hoa.
Từ Sơn La vượt hơn 30 cây số đèo Pha Đin, nơi ngăn cách giữa trời và đất, nơi bông hoa ban thấm đẫm trong từng câu dân ca Thái để đến Tuần Giáo. Cũng khó gặp hoa ban. Núi rừng hầm hập nóng trong gió Lào của đất Yên Châu, lạnh lẽo và cô quạnh trong mù sương trên đỉnh Pha Đin.
< Hoa ban là hoa của tình yêu, hoa của ước mơ trường thọ và là hoa của những con người trẻ mãi không già…
Đến lúc này, người ta mới thấy quý bóng cây ban. Hoa Ban mất đi không phải lỗi của người dân nơi đây. Người Thái bảo vệ rừng ban không chỉ vì nó là biểu tượng văn hoá của quê hương họ, mà còn vì chỉ có cây ban mới mọc được nơi đất cằn, độ dốc lớn.
Nhờ có cây ban giữ lại mùn mà đất cằn tái sinh, mà nước mưa ngấm vào lòng đất ngăn nhưng cơn lũ ống bất chợt tràn về. Cây ban không cho gỗ, cây ban đun cũng không cháy. Chỉ có bát canh hoa ban cho con trẻ được no lòng khi giáp hạt.
< Tắm tiên giữa núi rừng là nét văn hóa không thể thiếu tại vùng cao Tây bắc.
Luật và tín ngưỡng tôn giáo của người Thái trước đây quy định, bản nào cũng có hai khu rừng hoang dại mang tên rừng kiêng (đông căm) hay rừng ma (đông phi) và một khu rừng cấm chặt phá để bản tổ chức “Ngày hội hái măng” (Há nó pá hẳm).
Vì không ai dám chặt phá nên đã giữ được rừng nguyên sinh. Chẳng riêng gì người Thái, cả người Mông trên núi cao, người Khơ Mú, Kháng, La Hả… trong rừng sâu đều tự nguyện tuân theo luật Thái. Bởi đó là quyền lợi lâu dài của tất cả các dân tộc trong vùng.
Cây ban không còn, rừng cũng không còn, gió Lào như những lưỡi lửa vô hình quất vào đá núi. Chiếc khăn piêu rực rỡ không còn che đỡ nổi cái nắng lúc hạ về. Cô gái Thái bây giờ phải mang thêm cái nón của người xuôi.
Với những cô gái đã lập gia đình, đầu đã búi tóc (tẳng cẩu), đội cái nón vào trông rất ngộ. Nó mất hẳn đi sự cân đối nhưng vẫn đẹp; nó mong manh như mái nhà sàn chông chênh trên sườn núi, ai đó muốn chở che nhưng lại quá xa vời.
< Cơm lam núi rừng Tây bắc.
Ai đã từng ngược ngàn lên vùng Tây Bắc, dừng chân tại mảnh đất Điện Biên và hòa mình vào cuộc sống, phong cảnh thiên nhiên nơi đây sẽ có thêm nhiều hình ảnh, kỷ niệm đẹp trong một chuyến đi.
Nhưng đến Điện Biên mà chưa một lần ngắm nhìn những cánh rừng ngập trắng hoa ban hay đến thăm một bản dân tộc Thái, thưởng thức một món ăn truyền thống của đồng bào Thái, hòa vào hội vui cùng nắm tay múa xòe, nhảy sạp với các thiếu nữ Thái thì coi như chưa đến Điện Biên.
< Trẻ em ở Tây bắc.
Dân tộc Thái có truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán lâu đời, đặc sắc. Nằm trong hệ ngôn ngữ Tày- Thái, người Thái còn có các tên gọi khác là Táy, Hàng Tổng, Pa Thay, Thổ Đà Bắc và có hai nhóm Thái đen, Thái trắng.
Phụ nữ Thái có bộ y phục rất độc đáo với chiếc áo cóm bó sát người đính hàng cúc bướm bằng bạc, chiếc váy dài chấm gót và chiếc khăn piêu “thêu chỉ hồng” đội trên đầu.
Không cầu kỳ, rực rỡ sắc màu như một số trang phục của các dân tộc khác, bộ y phục giản dị, trang nhã đã tôn lên vẻ đẹp mặn mà, duyên dáng của các thiếu nữ Thái.
Người Tây Bắc nói chung và người Thái nói riêng sống chân thật, hoà thuận. Trong bản cũng như trong gia đình ít khi to tiếng với nhau. Đặc biệt, hiếm khi thấy bố mẹ đánh đập con cái. Sống đoàn kết và thương yêu nhau là nét chủ đạo trong cuộc sống của người Thái. Tục ngữ Thái có câu:
“Một thân không thể ngồi trên nong tự nhấc, không thể ngồi trên gốc tự nhổ” (Phủ điều báu năng đổng hak nho, báu năng to hak cốn). Cho nên khi đói kém, bản Thái và các dân tộc anh em vùng Tây Bắc sẵn sàng chia sẻ lương thực cho nhau.
Có lẽ phải tiếp cận từ góc nhìn như thế thì mới lý giải nổi sự tồn tại trong hàng chục năm của các quán hàng tự giác trên khắp các nẻo đường Tây Bắc. Hay phải chăng, đó là hệ quả của một xã hội chưa biết đến thương nghiệp với vật ngang giá là đồng tiền?
< Sau khi nhuộm vải.
Vậy thì ta nên vui hay buồn đây khi mà những quán hàng tự giác như thế ngày nay chỉ còn tìm thấy trong những câu chuyện cổ tích?
Người Thái ngày nay vẫn hiếu khách. Chẳng cần biết lạ hay quen, thân hay sơ, khách đến nhà là được ngủ ở vị trí trang trọng với chăn mới, đệm mới do chính bàn tay khéo léo của các cô gái Thái làm nên.
Là con gái Thái thì không được phép ngừng tay làm vải và phải đạt đến độ tinh xảo: “Sấp đôi tay đã thành hoa văn, ngửa bàn tay đã thành hoa lá” (Khuổm mư pên lai, hai mư pên pok). Có lẽ cũng chính vì thế mà người Thái gọi bạn trăm năm là vợ con tay guồng sợi tơ.
Gái Thái đẹp nhưng siêng năng, khéo tay nhưng hiền thục. Nhà có khách, các cô gái Thái bẽn lẽn quỳ cả buổi để tiếp rượu. Khách hoặc chủ có lỡ say thì đó cũng là cái sự quá vui mà thôi. Gần đây, một vài người có chê trách tật uống rượu say của người Tây Bắc.
Thực ra đó không phải là tập quán. Uống rượu thì có, nhưng việc say xỉn thì ngay cả người Thái cũng lên án. Bởi vậy mới có câu: “Uống rượu đừng uống say, say nhiều thành vơ vất người đời cười chê” (Kin lảu nha mau lai, mau lai pên báng pa pươn tay hua nả). Nếu cứ trách như thế thì hoá ra ta đã hiểu nhầm lòng chân thành và hiếu khách của bà con mất rồi.
Phụ nữ nhóm người Thái đen khi đã kết hôn phải búi tóc trên đầu (tiếng Thái gọi là “tằng cẩu”), còn phụ nữ Thái trắng vẫn để tóc bình thường. Cùng với sản phẩm nổi tiếng là vải thổ cẩm với hoa văn độc đáo, màu sắc lộng lẫy và đệm gối, đệm chăn hoa bông lau bền, đẹp, dân tộc Thái còn có nhiều món ăn hấp dẫn như món “lam nhọ” (thịt gia súc, gia cầm nướng nhừ), “pỉnh tộp” (cá nướng), “pa giảng” (cá hun khói)…
Xôi nếp là món ăn truyền thống của dân tộc Thái. Món xôi nếp này được người Thái xôi bằng phương pháp cách thủy rất kỹ thuật. Xôi chín bằng hơi, mềm, dẻo và được đựng bằng ép khẩu hay giỏ nan nhỏ đậy kín, ủ ấm giữ cho xôi dẻo lâu mà vẫn lưu được mùi vị thơm và ăn ngon miệng.
< Gội đầu ven suối.
Dân tộc Thái vốn yêu chuộng ca hát. Vào những ngày lễ, tết, ngày hội, ngày vui, đồng bào vẫn quây quần bên nhau múa, hát rất say sưa, nhộn nhịp.
Hình ảnh những chàng trai, cô gái Thái nắm tay nhau, cùng vui điệu múa xòe chung quanh ngọn lửa hồng hay rộn ràng trong điệu múa sạp:
< Váy Mông.
“sòn sòn sòn đô sòn, sòn sòn sòn đô rê…” đã trở nên rất gần gũi, quen thuộc và trở thành vũ điệu đặc trưng của người dân Điện Biên nói riêng, đồng bào Tây Bắc nói chung.
Ai đã có cơ hội sống ở Tây Bắc chắc sẽ không bao giờ quên dược những kỷ niệm ngọt ngào mà núi rừng cùng con người ở đây mang lạ – nhũng ấn tượng khó phai.
Chuyện làm đẹp của thiếu nữ Thái Tây Bắc
< Con gái Thái da trắng như hoa ban, uyển chuyển với những đường cong tuyệt mỹ. Con gái Thái dịu dàng, hiền thục…
Một điểm chung lớn nhất của các dân tộc Tây Bắc khi làm đẹp là rất chú ý tới mái tóc, đội khăn, quần áo và đồ trang sức.
Người con gái Thái, ngay khi còn nhỏ đã được các bà, các mẹ dạy cách thắt “xài yêu” – thắt lưng bằng vải, để lớn lên các cô gái đều có thân hình “eo kíu manh po”, thắt đáy lưng con tò vò. Chính vì vậy khi trưởng thành, các cô gái Thái đều uyển chuyển với những đường cong tuyệt mỹ.
< Điệu múa xòe không thể tiếu trong văn hóa Mông.
Chiếc “xửa cỏm”, một loại áo chẽn dài tay mặc ngoài, bó sát người, cũng góp phần không nhỏ làm nên nét đẹp của người con gái Thái, vừa tôn eo lưng thon thả, vừa vun đầy bộ ngực thanh tân.
Ngay hàng cúc áo bằng bạc hình con bướm – “mák pém” cũng có tiếng nói và ý nghĩa nhân sinh tinh tế. Một bên là hàng cúc hình bướm đực, một bên là hàng bướm cái.
< Nhổ bông về độn gối.
Con gái chưa chồng hàng cúc mang số lẻ, con gái có chồng hàng cúc mang số chẵn. Váy của con gái Thái màu đen, mặt trong gấu váy táp vải màu rực rỡ. Mỗi bước đi chân váy thấp thoáng sắc màu, lượn sóng kín đáo mà duyên thầm. Nói tới vẻ đẹp trang phục của con gái Thái không thể không nói đến chiếc khăn piêu huyền thoại, được thêu những hoa văn, họa tiết mô phỏng tinh tế thiên nhiên, với những “cút piêu”, nút thắt trang trí và “xài peng”, tua vải màu hai đầu khăn nổi tiếng.
Khăn piêu được đội hờ hững trên đầu như cánh bướm dịu dàng trên nhành xuân. Mái tóc của người con gái Thái đen nhánh, xuôn dài mềm mại. Con gái Thái đen chưa chồng tóc búi sau gáy, có chồng tóc búi đỉnh đầu, gài trâm bạc – “tằng cẩu”. Ngày đầu về nhà chồng, bà mối và mẹ chồng dùng những sợi tóc của bà, của mẹ lựa gom sau mỗi lần chải để dành cho con trai khi lấy vợ, kết cùng tóc của cô dâu. Rồi còn vòng cổ, vòng tay, xà tích bằng bạc buông lơi bên hông. Tất cả làm nên một vẻ đẹp khỏe mạnh, thanh xuân, dịu dàng ý nhị.
Người Dao ở Tây Bắc có nhiều ngành khác nhau: Dao đỏ, còn gọi là Dao Sùng, Dao đại bản; Dao quần chẹt, còn gọi là Dao Nga hoàng, Dao Sơn đầu; Dao Quần trắng, Dao Làn tuyển… Sự khác nhau giữa các nhóm Dao chủ yếu ở trang phục.
Người Dao đỏ, khăn, quần áo được thêu cầu kỳ nhiều hoa văn, họa tiết, chủ yếu là hình vết hổ – “xiền trảo miên”, hình vết mèo – “lồm trảo miên, cây vạn hoa – “thổm pẹ”, một loại cây cao quí trong quan niệm của người Dao, hoa văn cách đoạn – “thày lẩy”… các tua len trên khăn được làm bằng nhiều màu, trang trí các họa tiết hình cây thông – “xỏm pẹ” và hoa bạc.
Trên áo bé mặc trong, họa tiết chủ yếu thêu ở cổ, ngực và lưng. Trên ngực áo bé đính những hoa bạc theo chiều dọc giữa áo.
Áo dài mặc ngoài được trang trí hai hàng quả bông đỏ, mỗi bên bảy quả và các tua len nơi xẻ tà. Tà áo và đầu ống tay trang trí các hình sôm, dấu chân hổ, viền răng cưa. Dây lưng được thêu ở hai đầu các hình sôm, hình dấu chân hổ, cây thông, hình thập ngoặc và hình người mặc váy.
Quần của người Dao đỏ được thêu rất tỷ mỉ, trang trí họa tiết ở nửa dưới ống quần với các họa tiết hình vuông, chữ nhật… bằng các màu rực rỡ.
< Cô gái Dao đỏ.
Hoa văn, họa tiết trên trang phục người phụ nữ Dao đỏ thật phong phú và đa dạng, là kết tinh từ quá trình lao động sáng tạo. Lấy cảm xúc từ thiên nhiên: cỏ cây hoa lá, động vật… cách điệu và thổi hồn, góp phần làm nên một vẻ đẹp độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc.
NISAVA TRAVEL! – Tổng hợp