(Xuanthu) – Chẳng biết mọi người thế nào chứ với tôi, tôi rất thích những dòng sông. Có lẽ bài thơ “Nhớ con sông quê hương” của Giang Nam đã ngấm vào tôi chăng hay chính phong cảnh hữu tình nên thơ của bờ xanh, cát trắng, của sóng nước mênh mang dòng sông Lô quê tôi đã dào dạt chảy trong tôi tự thuở thiếu thời đã làm nên niềm mê thích đó? Vì thế mà hễ có thời gian rảnh rỗi là tôi lại phóng xe máy một mình trên những con đê của những con sông trong tỉnh để thưởng thức vẻ đẹp hiền hoà của những dòng sông.

Được theo chuyến đò dọc, theo cánh sơn tràng trên những mảng bè tre, gỗ xuôi dòng, hay ngồi trên những chiếc xà lan chở than trên sông mà ngắm cảnh đôi bờ thì tuyệt trần.

Tôi bảo đảm với các bạn rằng, không gì thú vị bằng những đêm trăng sáng mênh mang mà gối đầu, nằm khểnh vắt chân một mình trên chiếc bè gỗ để ngắm trăng, sao, nghe sóng vỗ ì oạp, với làn gió hè mơn man thì không gì thú vị bằng. Trên trời là trăng, là sao, dưới đáy nước lung linh cũng là trăng là sao, còn ta thì bồng bềnh trôi trên sông như trôi trong vũ trụ thiên hà.

Nằm trung lưu của hệ thống sông Hồng, Phú Thọ quê tôi tiếp nhận ba nguồn nước của 3 sông lớn, đó là sông Lô, sông Thao và sông Đà cùng với hai chi lưu là sông Chảy và sông Bứa với nhiều suối, ngòi chằng chịt. Tôi cũng đã từng đi đủ cả 5 con sông đó, lúc thì trên bờ, lúc thì dưới sông, tuy chưa hết chiều dài tất cả các con sông đó nhưng cảm giác và ấn tượng về sông thì thật khó tả. Nó da diết bồi hồi, nó lâng lâng, man mác, nhất là tiếng gọi đò giữa đêm khuya thanh vắng hay bất chợt tiếng hò, giọng hát của cô lái đò nào đó chợt vút lên thì dư âm của nó cứ lắng đọng mãi trong tôi.

Sông Thao là dòng chính của sông Hồng bắt nguồn từ Trung Quốc. Vì chảy qua huyện Lâm Thao nên gọi là sông Thao. Còn có tên gọi khác là sông Nhĩ Hà (vì đoạn chảy qua Phú Thọ uốn cong như vành tai người, như cái mộc nhĩ). Sông Thao chảy theo hướng tây bắc – đông nam. Độ cao bình quân lưu vực là 647 mét. Độ dốc bình quân lưu vực là 29,9%. Phần diện tích lưu vực riêng Việt Nam là 11.173 cây số vuông. Chiều dài chảy qua Phú Thọ (từ xã Hậu Bổng huyện Hạ Hòa, chiến khu D xưa đến Bến Gót, Việt Trì) dài khoảng 109,5 km. Các nhánh của sông Thao phần lớn ở phía hữu ngạn, đổ thẳng từ dãy Hoàng Liên Sơn cao vút theo dãy núi xuống thẳng sông Thao nên các nhánh sông đó đều ngắn và rất dốc, mật độ khá dày. Phải thế chăng mà nước sông Thao luôn có màu đỏ? Chắc hẳn chở nặng phù sa bồi đắp cho phần hạ lưu để dưới đó bờ dâu, bãi mía đều xanh rờn, để Chử Đồng Tử và Tiên Dung gặp nhau trở thành “Tứ bất tử” về Tình yêu để đời đời ca ngợi?

Cụ Bút Tre xưa đã có câu thơ thú vị: “Sông Hồng đỏ nặng phù sa/ Đỏ thì đỏ thật nhưng vẫn thua xa da Bác Hồ”. Hóm hỉnh quá. Thực thà quá. Còn dân khu vực thượng lưu dòng sông của tỉnh thì có câu ca “Sông Thao nước đục, người đen/ Ai lên Vũ Ẻn thì quên đường về”. Còn tôi, khi ngồi trên con đò dọc của anh bạn thì âm hưởng của bài ca “Du kích sông Thao” của Đỗ Nhuận cứ vang lên. “Hồng Hà mênh mang, đưa nước trên ngàn về xuôi…”,  để rồi về đến ngã ba Bạch Hạc thì bài phú “Ngã Ba Hạc” của cụ Nguyễn Bá Lân (1701-1785), lại Bộ Thượng thư thời vua Lê Hiển Tông lại tự nhiên hiện về từng câu, từng chữ. “Xinh thay ngã ba Hạc/ Lạ thay ngã ba Hạc/ Trên chia ba ngác/ Ngóc ngách khôn đo rộng hẹp/ Dòng biếc lẫn dòng đào/ Lênh loang dễ biết nông sâu…”. Với cảnh ấy, tình ấy tôi cứ có cảm giác sởn da gà và cười tủm tỉm một mình. Các cụ xưa tài quá, hóm quá.

Chảy trên đất Phú Thọ, sông Thao hiền hòa thơ mộng là thế, thế mà mùa lũ nó lồng lên, cuồn cuộn chảy, nước đục ngầu, cuốn phăng đi tất cả. Lúc đó đứng trên bờ đê mà nhìn ra mặt sông thì mới thấy sự hung dữ của nó biết chừng nào. Có lẽ, duy nhất ở sông Hồng là không “bị” làm thủy điện nên chẳng có con đập nào chắn nước nên tha hồ cho nó lao mình, vùng vẫy. Dân Phú Thọ còn nhớ mấy lần lũ ống bất ngờ tàn phá từ con sông vốn thường ngày hiền hòa thơ mộng này.

Đến nay, đã có ba cây cầu lớn trên đất Phú Thọ bắc qua sông Hồng: cầu Hạ Hòa, cầu Ngọc Tháp, cầu Phong Châu. Chúng như những dải áo buộc hai vạt áo là hai bờ sông Thao để cho thân thể vùng đất này ngày càng mượt mà, tươi tốt, cho “quê em miền trung du, đồng quê lúa xanh rờn”, để “dâu bờ xanh thắm, nong tằm kín lứa tơ” như nhạc sỹ Nguyễn Đức Toàn đã hát.

Từ ngã ba Bạch Hạc, rẽ trái mời bạn theo tôi ngược dòng Lô. Sông Lô bắt nguồn từ Trung Quốc vào Việt Nam nhập vào sông Hồng ở Việt Trì, dài 470 cây số, phần Việt Nam 275 cây số. Chiều dài chảy qua Phú Thọ từ Chí Đám (Đoan Hùng) đến Bến Gót (Việt Trì) khoảng 73,5 cây số cũng chảy theo hướng tây bắc – đông nam gần như song song với sông Thao. Nếu như nước sông Thao đỏ bao nhiêu thì nước sông Lô lại trong xanh bây nhiêu. Chả thế mà khi gặp sông Thao thì “dòng biếc lẫn dòng đào” đúng như cụ Nguyễn Bá Lân đã tả.

Sông Lô cũng là một dòng sông đi vào lịch sử với chiến thắng tàu chiến Pháp thu đông năm 1947 tại Đoan Hùng, xứ bưởi. Quả bưởi thơm ngon là thế, hiền lành là thế, thế mà được các cụ ta ngày trước dùng nhựa đường đun sôi bôi đen thả nổi trên sông để làm thủy lôi giả khiến tàu giặc kinh hoàng dạt tránh sang đúng vào trận địa phục kích của quân ta để pháo thần công của ta lần đầu ra trận đã chiến thắng ròn rã. Đến ngã ba sông Đoan Hùng, nơi sông Chảy gặp sông Lô, từ con thuyền mà tôi và bạn đang bềnh bồng trên sông, hãy cùng ngước lên về phía tây ta sẽ thấy cụm tượng đài Chiến thắng sông Lô sừng sững đêm ngày soi bóng nước ghi dấu mãi chiến công này. Và thể nào trong tâm trí bạn, trong tâm hồn tôi cũng tự nhiên sẽ vang lên bản trường ca “Sông Lô” bất hủ của cố nhạc sĩ Văn Cao. Giai điệu mênh mang, tiết tấu lúc thư thái, khi dồn dập, dù chẳng ở cái thời các cụ ngày xưa ấy nhưng tôi vẫn cứ cảm thấy sởn da gà vì những chiến công lừng lẫy hào hùng và vẻ đẹp nên thơ của dòng Lô.

Ngược đến bến Bình ca “bất chợt gặp câu thơ ai bỏ quên giữa dòng” (Sông Lô chiều cuối năm – ca khúc của nhạc sĩ Minh Quang) mà bỗng thấy nao lòng. Chiều cuối năm, trên đất liền tất bật là thế, vội vã là thế, thế mà trên dòng Lô này sao vẫn hiền hòa, tĩnh lặng, vẫn trầm tư, da diết đến lạ thường. Bạn nhìn tôi, tôi nhìn bạn, ta nhìn sông trong màn sương khói chiều buông và cùng thảng thốt thầm gọi: người thương ơi bây giờ ở đâu? Ơi sông Lô trong xanh hiền hòa chảy mãi từ tuổi thơ tôi cho tới tận mãi bây giờ!

Lần khác, tôi vượt cầu Phong Châu, qua sông Hồng rồi theo đê hữu sông Đà để ngược tiếp theo con sông này mà chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó. Sông Đà là phụ lưu lớn nhất thuộc hệ thống sông Hồng. Lưu vực sông Đà nằm trong địa phận đất đai của ba nước Trung Quốc, Lào và Việt Nam với tổng diện tích lưu vực là 52.900 cây số vuông. Chiều dài sông chảy qua tỉnh Phú Thọ từ Tinh Nhuệ (Thanh Sơn) đến Hồng Đà (Tam Nông) khoảng 43,5 cây số theo hướng nam bắc. Nhìn trên bản đồ thì đoạn cuối cùng của con sông này trên đất Phú Thọ lại chảy ngược. Hiện tại, dòng chảy sông Thao khi hợp lưu với dòng chảy sông Đà đã tạo thành một góc gần vuông. Vì thế nó ép dòng chảy sông Đà đi sát bờ hữu trở thành nguyên nhân chính gây sạt lở bờ sông đoạn Phong Vân.

Dù chẳng được đi đò ngược sông Đà nhưng tôi vẫn cứ tưởng tượng ra cảnh hùng vĩ của con sông này qua tùy bút nổi tiếng “Người lái đò trên sông Đà” của cụ Nguyễn Tuân”. Cụ viết giỏi quá, hay quá! Tôi bái lạy cụ và ngòi bút của tôi cũng trở thành bất lực. Tuy nhiên, đoạn sông Đà chảy ngược qua Phú Thọ quê tôi cũng thôi thúc tôi viết về nó. Bở bên kia là dãy núi Ba Vì quanh năm mây phủ. Bờ bên này là huyện Thanh Thủy bát ngát ngô lúa rờn xanh. Theo truyền thuyết thì chính nơi đây đã xảy ra trận chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh trong việc Vua Hùng kén rể. Từ đỉnh cao non Tản, Sơn Tinh đã huy động sơn thần, thổ địa, chim muông, thú dữ, bốc núi, cầm đồi ném xuống sông ngăn dòng nước lũ của Thủy Tinh đang cuồn cuộn dâng lên giận dữ. Hòn Ghẹ (một quả núi đá giữa sông) bây giờ chính là “vật chứng” còn sót lại của chiến tích ấy.

Thế mà bây giờ, người ta đã “xẻ thịt” phá đá gần tan hết hòn Ghẹ đẹp như hòn non bộ thiên nhiên ban cho. Nơi đây cũng chính là nơi sản sinh ra Tản Viên Sơn Thánh (động Lăng Sương – xã Trung Nghĩa) để trở thành “tứ bất tử” thứ nhất trong huyền thoại tứ bất tử Việt Nam. Cũng chính nơi đây, Lạc Long Quân khi ngược sông Đà tìm nơi đóng quân đến bãi dâu của xã Trung Nghĩa ngày nay (động Lăng Sương xưa) đã gặp người con gái xinh đẹp là nàng Âu Cơ và hai người đã nên vợ thành chồng đưa nhau về Việt Trì để sinh bọc trăm trứng nở trăm con mang dòng máu Lạc Hồng. Dự án du lịch sinh thái của huyện Thanh Thủy dự kiến sẽ xây dựng tại bãi Cửa Đình này một biểu tượng Tình yêu để nhắc nhớ con cháu các thế hệ về mối tình trăm trứng đó.

Bên kia, dưới chân núi Ba Vì là khu di tích lịch sử Đá Chông, nơi lưu giữ thi hài Bác những năm chống Mỹ, bây giờ trở thành khu du lịch sinh thái, lịch sử thật tuyệt vời. Bên này, ngược lên một đoạn là tượng đài Chiến thắng Tu Vũ (ghi chiến công thắng giặc Pháp trong chiến dịch Hòa Bình đêm 11-12-1951) sừng sững bên sông.

Sông Đà xưa hung dữ là thế nhưng bây giờ đã “bị” 3 con đập thủy điện ngăn lại làm cho nó khi về đến Phú Thọ trở nên hiền hòa hơn. Thủy điện Hòa Bình nằm giữa đoạn cong của con sông từ chỗ chảy xuôi trở thành “chảy ngược” (theo bản đồ), thủy điện Sơn La (lớn nhất khu vực Đông Nam Á) vừa vận hành tổ máy số 1, và thủy điện Lai Châu vừa được phát lệnh khởi công. “Nguồn than trắng” vô biên của con sông Đà này đang được khai thác hết công suất.

Quay trở lại, đến gần cửa sông Đà đổ ra sông Thao là tới phủ Hưng Hóa. Cột cờ Hưng Hóa vừa được tái phục dựng cao vút giữa thị trấn đang từng ngày đổi mới. Thế là sông Đà đã chảy qua ba huyện của Phú Thọ, từ Thanh Sơn, qua Thanh Thủy, về Tam Nông. Hiện nay mới chỉ có một cây cầu là cầu Trung Hà bắc qua con sông này nối hai bờ Phú Thọ với Hà Nội mới (Hà Tây xưa). Theo dự kiến thì sẽ có một cây cầu nữa nối bờ Thanh Thủy sang khu K9, Đá Chông. Chắc chắn mai này, sự đi lại của dân cư hai bờ sẽ ngày càng thuận tiện.

Bây giờ tôi mời các bạn đi thăm hai chi lưu của 3 con sông lớn nói trên. Trước hết đó là sông Chảy. Đã là sông thì nước phải chảy rồi, thế mà còn gọi tên nó là sông Chảy thì thật thà hết chỗ nói. Đây là nhánh lớn nhất của sông Lô. Nó chảy theo hướng tây bắc – đông nam, song song với dòng Thao, dài 319 km. Diện tích lưu vực 6.500 cây số vuông, ở Việt Nam là 4.580 cây số vuông. Thượng nguồn sông Chảy gồm nhiều nhánh nhỏ hình nan quạt và hợp lưu gần biên giới Việt Trung (Nam Ninh) đều bắt nguồn trên độ cao 1.000 mét, có tổng diện tích là 1.920 cây số vuông. Đoạn chảy trên đất Việt Nam dài, lưu vực hẹp, nhập vào sông Lô cửa sông là tượng đài chiến thắng sông Lô ngày đêm soi bóng. Chiều dài chảy trên đất Phú Thọ là 18 km.

Sông Chảy có đập thủy điện Thác Bà (trên đất Yên Bái). Đây là nhà máy thủy điện đầu tiên trên miền Bắc XHCN. Dọc hai bên bờ sông của 18 cây số trên đất Đoan Hùng (Phú Thọ) là những vườn đồi, trang trại khá trù phú. Đặc biệt là vùng quýt Đồng Khê, bưởi Bằng Luân, Hùng Quan, ngô Phương Trung, Phong Phú, Vân Du. Chính lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam ra đời lại chính trên mảnh đấtt Hùng Quan của huyện Đoan Hùng và dòng sông Chảy là “thủy bàn” khai sinh ra binh chủng đặc biệt này.

Chi lưu thứ hai là Sông Bứa. Sông Bứa nằm gần trọn trong tỉnh Phú Thọ và trải khắp huyện Thanh Sơn, Tam Nông, chỉ có phần ngọn nguồn nằm trong tỉnh Sơn La, cuối nguồn đỏ ra sông Hồng. Sông Bứa có tổng diện tích là 1.370 cây số vuông, chiều dài sông là 73,5 cây số; độ cao bình quân lưu vực là 302, độ dốc bình quân là 22,2%. Mật độ suối, ngòi khá dày đặc. Vùng đất này toàn rừng núi, khá hoang sơ nên sông Bứa rất thuận tiện cho ngành du lịch sinh thái phát triển. Chính vì thế mà nhà văn Sao Mai đã chọn vùng đất Thanh Sơn, bên bờ sông Bứa để làm nơi sinh sống và lập vọng ngư lầu vể viết văn. Tôi cũng chỉ thi thoảng đi cắt ngang hoặc dạo dọc được một vài đoạn của sông Bứa nên đối với tôi sông Bứa tuy “là của Phú Thọ” thật đấy nhưng cũng chưa hiểu được nhiều lắm. Chỉ một vài đoạn sông thôi tôi cũng đã hình dung ra sự kỳ vĩ của nó rồi.

Ơi những cong sông của mảnh đất cội nguồn dân tộc đã đi vào thi ca, nhạc họa. Này “Du kích sông Thao”, này trường ca “Sông Lô”, này “Sông Lô chiều cuối năm”… với bao truyền thuyết, huyền thoại cùng phong cảnh hữu tình, thơ mộng đã nuôi nấng tâm hồn tôi, chắp cánh cho tôi bay khắp bốn phương trời. Dù đi đâu, về đâu, “dù xa cách bao lâu” tôi vẫn không quên những dòng sông hiền hòa ấy. Có phải thế chăng mà nhà thơ Lê Huy Mậu, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo “quá nửa đời người” vẫn muốn về “úp mặt vào sông quê”? Đò xưa, bến cũ thì vẫn thế mà người xưa nay đâu, sông ơi?

Theo Xuanthu.vnweblogs, ảnh internet
NISAVA TRAVEL!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *